Hành Trình Đắc Chứng Quả Phật Của Đức Phật Gotama

Nói về Đức Phật Gotama, vì Ngài là người thầy, bậc đạo sư vĩ đại nhất, nên có rất nhiều ý để nói về Ngài, và những ý này đã được chính Ngài tự nói tới trong bộ kinh Nikaya. Trong bài viết này, Điêu Khắc Trần Gia xin gửi tới quý độc giả, quý Phật tử những ý chính cụ thể: Đức Phật Gotama là ai?. Đồng thời điểm qua một vài sự kiện có ảnh thưởng nhất trong quá trình tìm ra con đường rồi tự thực hành chứng đạt được chánh trí, thanh tịnh, giải thoát, đích cao nhất của trí tuệ, đồng thời giảng dạy lại cho những người khác để cũng có thể đạt được chánh trí, thanh tịnh, trí tuệ, giải thoát như Ngài. Bên cạnh đó, chúng ta cũng tìm hiểu coi có ai có quyền năng tối thượng tương đương Ngài hay không.


 

I, Đức Phật Gotama là ai? Và có bao nhiêu Đức Phật?

1, Có bao nhiêu Đức Phật?

 

Theo Trung Bộ kinh của bộ Nikaya,( 142. Kinh phân biệt cúng dường) thì Đức Phật chỉ nói tới có 2 loại vị Phật: đó là Phật Chánh Đẳng Giác và Phật Độc Giác. Khi cúng dường cho 2 loại vị Phật này thì chúng ta sẽ có được số lượng công đức nhiều thứ nhất và nhiều thứ hai. Kế tới là các vị A la hán, đệ tử của Như Lai – tức Phật Chánh Đẳng Giác. Và chỉ có 3 hạng người trên là đã tới được đích của trí tuệ, chánh trí, thanh tịnh, giải thoát. Còn các hạng người sau nữa thì đều chưa đạt được tới đích của trí tuệ, giải thoát. Từ đây chúng ta thấy rõ là không còn bất cứ 1 loại vị Phật nào khác nữa.

Các vị Phật Độc Giác chỉ có 1 số đặc điểm giống với vị Phật Chánh Đẳng Giác là cùng tự mình tìm ra con đường rồi tự thực hành và chứng nghiệm đạt tới chánh trí, thanh tịnh, trí tuệ. Tuy nhiên, vị trí của các vị Phật Độc Giác thì thấp hơn vị Phật Chánh Đẳng Giác, và các vị Phật Độc Giác không thể giảng dạy lại cho bất cứ người nào khác để cũng có thể đạt tới đích cao của trí tuệ này. Chỉ có duy nhất vị Phật Chánh Đẳng Giác mới có thể giảng dạy.

Vì vậy, chúng ta chỉ có thể thấy được lời dạy (Pháp) của vị Phật Chánh Đẳng Giác, mà không thể thấy lời dạy (Pháp) của các vị Phật Độc Giác. Cho nên, chúng ta cũng khó có thể nhận ra các vị Phật Độc Giác, vì chúng ta không đủ trí tuệ để có thể nhận ra.

Vị Phật Chánh Đẳng Giác là bậc tối thượng giữa các loài hai chân – có nghĩa là bao gồm cả loài người cùng tất cả các loài chư Thiên và chư Phạm Thiên

2, Đức Phật Gotama (Cồ Đàm) vị Phật Chánh Đẳng Giác duy nhất:

 

Đức Phật Gotama đã chứng đạt chánh trí, thanh tịnh, đích cao nhất của trí tuệ, để trở thành vị Phật Chánh Đẳng Giác. Đức Phật Gotama đã xác nhận mình chính là vị Phật Chánh Đẳng Giác duy nhất trong thời đại của chúng ta hiện nay

Tại sao lại nói Đức Phật Gotama (Thích Ca Mâu Ni) là vị Phật Chánh Đẳng Giác duy nhất trong thời đại của chúng ta?

Vì ngày nay, lời dạy (Pháp) của Đức Phật Gotama vẫn đang còn tồn tại, cho nên không thể có lời dạy (Pháp) của bất cứ vị Phật nào khác cũng đang song hành tồn tại được.

3, Tiền kiếp của Đức Phật Gotama:

 

Đức Phật Gotama là Đức Phật Chánh Đẳng Giác có trí tuệ ưu việt, những tiền kiếp của Ngài là Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác, trí tuệ của Ngài nhiều năng lực hơn đức tin và tinh tấn, cho nên thời gian tạo 30 pháp hạnh Bà La Môn của Ngài bằng một nửa thời gian của Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác có đức tin ưu việt, và bằng một phần tư thời gian của Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác có tinh tấn ưu việt.

Trong bộ Jinakalamali và bộ Chú giải Buddhavaṃsa có giải thích tiền kiếp của Đức Phật Gotama là Đức Bồ Tát tạo 30 pháp hạnh Ba la môn trải qua 3 thời kỳ:

a, Thời kỳ đầu:

Thời kỳ Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm, có ý nguyện muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác, để tế độ chúng sinh giải thoát mọi cảnh khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài, trong thời gian suốt 7 a-tăng-kỳ kiếp trái đất.

Trong khoảng thời gian lâu dài vô số kể ấy, đã trải qua 125.000 Đức Phật tuần tự mỗi Vị đã xuất hiện trên thế gian.

b, Thời kỳ giữa:

Thời kỳ Đức Bồ Tát phát nguyện bằng lời nói, để cho chúng sinh có thể nghe và hiểu biết rằng: “Đức Bồ Tát có ý nguyện muốn trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác”, trong thời gian suốt 9 a-tăng-kỳ kiếp trái đất.

Trong khoảng thời gian lâu dài vô số kể ấy, đã trải qua 342.000 (Theo Jinakalamali có 387.000 Đức Phật). Đức Phật tuần tự mỗi Vị đã xuất hiện trên thế gian.

Trong suốt hai thời kỳ đầu và giữa, Đức Bồ Tát vẫn còn là Đức Bồ Tát bất định (Aniyatabodhisatta) có thể thay đổi ý nguyện, không còn muốn trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, mà muốn trở thành Đức Phật Độc Giác, hoặc bậc Thánh Thanh Văn Giác. Nếu Đức Bồ Tát vẫn không thoái chí, có tâm đại bi thương xót chúng sinh, có ý nguyện muốn trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, để tế độ cứu vớt chúng sinh thoát khỏi biển khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài, thì Đức Bồ Tát tiếp tục tinh tấn tạo 30 pháp hạnh Bà La Mônbước sang đến thời kỳ cuối.

c, Thời kỳ cuối:

Thời kỳ Đức Bồ Tát được Đức Phật Chánh Đẳng Giác đầu tiên thọ ký xác định thời gian còn lại 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất nữa, chắc chắn sẽ là Đức Phật Chánh Đẳng Giác trong thời vị lai. Khi ấy, Đức Bồ Tát trở thành Đức Bồ Tát cố định (Niyatabodhisatta) tiếp tục tạo cho đầy đủ 30 pháp hạnh Bà La Môncho đến kiếp chót.

II, Sự chuẩn bị và hành trình để Trở thành một vị Phật

1, Sự Ra Đời Của Đức Phật Gotama

Đức Phật Gotama, hay còn gọi là Đức Phật Thích Ca, thế danh là Siddhattha, có nghĩa là người được toại nguyện, họ Cồ Đàm (Gotama), sau đổi là Thích Ca (Sakya).

Ngài là Hoàng tử con của Vua Suddhodana và Hoàng Hậu Maya-Devi.

 

Vào ngày thứ năm, đứa trẻ được đặt tên là Siddhattha với sự có mặt của các nhà chiêm tinh nổi tiếng họ đã đồng ý rằng đứa trẻ có tất cả các đặc điểm trở thành một vị Phật. Tuy nhiên, Mẹ ngài, hoàng hậu, mất sau đó một tuần sau khi hạ sinh, và Ngài được nuôi nấng bởi người cô ruột, Pajapati-Gotami.

Năm mười sáu tuổi, Siddhattha đã cưới Yasodhara, một công chúa diễm kiều. Cho đến năm hai mươi chín tuổi Ngài sống đời sống của một cư sĩ tại gia giữa những xa hoa, sự thoải mái và những tập tục. Ngài được ca ngợi là thần đồng cả về trí tuệ và sức mạnh. Quốc vương đã tách rời các nỗi đau để làm cho cuộc đời Ngài êm đềm. Có ba cung điện được xây dựng để phù hợp cho ba mùa với những tiện nghi sẽ làm thái tử đắm chìm trong thú vui nhục dục. Vì là vua, ngoài tình yêu thương của bố mẹ, ông mong muốn con trai mình sẽ mãi sống cuộc đời thế gian là một vị vua thay vì là trở thành Đức Phật Giác Ngộ.

Để chắc rằng suy tư của thái tử không bao giờ theo hướng triết học cao cả hơn, ông ra lệnh không một ai hầu cận thái tử hoặc liên hệ với Ngài được nói dù chỉ một từ về những điều như tuổi già, bệnh tật, hay cái chết. Họ vờ diễn như không hề có những điều bất như ý trong thế giới này. Người hầu và tùy tùng nếu ai có dấu hiệu già đi, yếu đi, hay bệnh tật đều được thay thế. Mặt khác, luôn có có nhảy múa, âm nhạc và các buổi tiệc vui chơi liên tục, để giữ Ngài hoàn toàn trong sự say đắm nhục dục.

2, Sự Từ bỏ Vĩ đại

 

Tuy nhiên nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm trôi qua, sự đơn điệu của các khoái lạc xung quanh dần mất đi sự ảnh hưởng trong tâm trí của Thái tử Siddhatta. Năng lượng tinh thần của đức hạnh được bảo tồn trong vô số kiếp trước của Ngài dành cho mục đích trở thành Quả vị Phật được tự động khơi dậy. Mỗi khi, thế giới khoái lạc làm tâm Ngài mất kiểm soát, bản ngã bên trong của ngài vực dậy và nâng tâm trí của ngài lên trạng thái trong suốt và yên bình với sức mạnh của samadhi (định) cũng như nó đã nâng Ngài khi còn bé lên không trung và đặt lên đầu của Kaladevala.

Đến một ngày, Thái tử khao khát được nhìn thấy thế giới thực tại bên ngoài.. Vì vậy, Ngài quyết định đến xem khu vườn hoàng gia, bên ngoài tường thành cung điện. Trên đường đi đến khu vườn Ngài đã thấy một ông già lom khom. Tiếp đó Ngài thấy một người đau đớn khi đang bị một căn bệnh hiểm nghèo. Chuyến tiếp theo Ngài thấy một xác người. Chuyến viếng thăm cuối cùng Ngài thấy một nhà tu.

Tất cả những điều trên dẫn tâm trí Ngài đến việc suy nghĩ nghiêm túc. Tâm trí Ngài trở nên nên rõ ràng với những bất tịnh và nâng lên với nguồn sức mạnh của chính đức hạnh được gìn giữ trong sankhara-loka (cung trời của các lực tinh thần). Sau đó, thoát khỏi cản trở, tâm Ngài trở nên yên tĩnh, thanh tịnh, và mạnh mẽ. Tất cả diễn ra vào đêm con trai Ngài chào đời, một trói buộc mới cho Ngài. Tuy nhiên, Ngài miễn nhiễm với bất kỳ thứ gì có xu hướng làm quấy nhiễu tính quân bình của tâm mình. Đức hạnh kiên định làm việc theo cách của nó để giải quyết vấn đề mạnh mẽ, và làm tâm Ngài tìm kiếm con đường thoát khỏi sinh, lão, bệnh, tử.

Vào giữa đêm khi sự quyết tâm mạnh mẽ được thực hiện. Ngài yêu cầu người phụ tá Channa chuẩn bị con ngựa Khanthaka sẵn sàng. Sau khi nhìn vợ và đứa bé mới sinh một lúc, Thái tử Siddhattha phá bỏ mọi ràng buộc của gia đình và của thế giới và thực hiện sự Từ Bỏ Vĩ Đại. Ngài cưỡi ngựa băng qua thị trấn tới sông Anoma, gài băng qua sông, và không bao giờ trở lại cho tới khi nhiệm vụ được hoàn thành.

3, Hành trình đến Magadha

Thái Tử Siddhattha băng qua sông Anoma, khoác áo choàng của người ẩn sĩ và đi đến Magadha. Ngài bắt đầu cuộc sống mới của một nhà tu hành. Đi gần đến làng Anupriya, có một vườn xoài. Ngài ở đó một tuần, Ngài kinh nghiệm hạnh phúc đầu tiên của đời sống tu hành. Để học thiền, ngài quyết định tìm đến vị thầy tên Alara Kalama

Từ làng Anupriya, ngài đi thẳng đến Rajgir (Rajagaha, thủ phủ của Vương quốc) Trên con đường chính của thành phố, Ngài bắt đầu đi từ nhà này sang nhà khác để khất thực. Mọi người bị ấn tượng với gương mặt rạng rỡ và dáng vẻ cao ráo của Ngài. Họ chưa từng thấy một vị tu sĩ có sức hấp dẫn như vậy. Bất cứ ai thấy Ngài đều mãi dõi theo Ngài.

4, Đức Phật Gotama và hành trình tu hành khổ hạnh:

a, Sự hướng dẫn của Thầy Alara Kalama

Sau cuộc Từ Bỏ Vĩ Đại này, Thái tử Siddhattha đi khắp nơi tìm các vị thầy có khả năng trong tình trạng một khất sĩ lang thang với bình bát khất thực trong tay. Ngài được nhận hướng dẫn bởi hai vị thầy Bà La Môn nổi tiếng là, Alara và Uddaka. Alara nhấn mạnh niềm tin vào tâm hồn và dạy tâm đạt giải thoát hoàn toàn khi giải thoát khỏi các giới hạn vật chất. Điều này không làm thái tử hài lòng.

b, Sự hướng dẫn của Thầy Uddaka Ramputta

Sau khi học tầng thiền thứ bảy ở trung tâm thiền của Alara Kalama, thái tử khổ hạnh đến trung tâm thiền của Uddaka Ramputta nơi Ngài học được tầng thiền thứ tám chỉ trong thời gian rất ngắn.

Tầng thiền thứ tám là phép thiền định của nevasannanasannayatana. Sau tầng thiền thứ bảy, trong tầng thiền tiếp theo, nhận thức trở nên quá mong manh khó để phân biệt dù nó có ở đó hay không. Sanna làm công việc nhận diện và đánh giá. Trong trạng thái này ai là người nhận định? Nên gọi trạng thái này là gì? Điều này là gì khi chúng ta thể định nghĩa như bầu trời vô định hay nhận thức vô hạn hoặc không là gì. Trạng thái này vượt lên tất cả và không thể gọi tên. Sanna trở nên không thể nhận biết bất kỳ sự vật nào. Tuy nhiên hành giả hoàn toàn không là gì khi không có Sanna. Trong trạng thái này, không thể nói là có Sanna hay không.

Sau khi trải qua kinh nghiệm về tầng thiền thứ tám này, Đức Bồ Tát thấy rằng đây là trạng thái vô hình thức cao nhất của sự sống. Đây là trạng thái cao nhất giữa mọi sự tồn tại trong vòng sinh tử. Nó cho phép người đó sống một đời sống dài lâu hàng niên kỷ. Nhưng trạng thái này không bất diệt. Dù rằng đây là trạng thái cao nhất, nhưng nó vẫn là một trạng thái sống tạm thời. Đây vẫn là lãnh địa của Mara và không thoát khỏi nanh vuốt của ông ấy. Vòng sinh tử mãi tiếp diễn ở đây. Đây không phải là một trạng thái hoàn toàn chấm dứt đau khổ.

Uddaka, người nhấn mạnh rất nhiều về ảnh hưởng của nghiệp lực và sự chuyển đổi của linh hồn. Cả hai không thể thoát ra quan niệm về “linh hồn” và thái tử khổ hạnh cảm thấy có điều gì đó khác mình cần phải học.

c, Hành trình đến Uruvelan và việc tu hành khổ hạnh:

Đức Bồ Tát muốn kinh nghiệm sự thật diễn ra bên ngoài tất cả thực thể, trạng thái bất biến, trường cửu không chết và bất diệt. Ngài muốn tìm ra con đường thoát khỏi mọi khổ đau, đau khổ của cuộc sống và cái chết. Vì điều này Ngài phải đạt sự toàn giác, sẽ cho phép Ngài hiểu tại sao con người lại đau khổ và con đường thoát khỏi mọi khổ đau.

Với những ý nghĩ tốt lành, Đức Bồ Tát tiến về Uruvela là nơi rất thích hợp để hành thiền.

Lúc này, dĩ nhiên, Ngài đã học được tám chứng quả và có thể thực hành thành thục tất cả các quyền năng siêu nhiên bao gồm khả năng đọc các sự kiện của nhiều chu kỳ thế giới sắp đến và một chu kỳ tương tự trong quá khứ. Tất cả đều thuộc lĩnh vực của thế giới ta bà, và vị thái tử khổ hạnh không quan tâm nhiều đến chúng, vì Ngài có mục tiêu là giải thoát khỏi thế giới ta bà của sự sinh, khổ đau và cái chết.

Sau đó Ngài tham gia cùng năm vị khổ hạnh, một trong số họ, tên là Kondanna, là nhà tiên tri mà vào ngày thứ năm sau khi Đức Phật sinh đã tiên tri chắc chắn rằng Ngài sẽ chắc chắn trở thành Đức Phật. Những vị khổ hạnh phục vụ ngài rất tốt trong suốt sáu năm khi Ngài nguyện chí nhịn ăn và hành thiền, ngài phải chịu đựng các hình thức khắc khổ và kỷ luật cho đến khi ngày chỉ còn gần như là một bộ xương khô. Thực tế, vào một ngày, ngài đã ngã quỵ và ngất đi trong kiệt sức. Khi ngài sống sót qua tình trạng này, Ngài đã thay đổi phương pháp, đi theo con đường trung đạo, và tìm thấy con đường đi đến Giác Ngộ rõ ràng hơn.

d, Bát cháo sữa của Sujata

Sujata con gái của một phú ông từ một ngôi làng tên Sena ở khu rừng Uruvela, có niềm tin lớn vào một vị thần cây. Cô đã tin rằng cuộc hôn nhân thành công và sự chào đời của đứa con trai hai mươi năm về trước là nhờ sự chúc phúc của vị thần cây này. Do vậy hàng năm cô trở lại quê hương để dâng cúng thần cây vào đêm trăng tròn Vesaka.

Năm nay Sujata chuẩn bị món cháo sữa ngon tuyệt để dâng lên thần cây. Cô cử người hầu đến cái cây để dọn sạch chỗ. Khi người hầu này thấy thái tử khổ hạnh Siddhattha với một nhân cách đầy thu hút và gương mặt rạng ngời đang thiền dưới gốc cây, cô nghĩ rằng thần cây đã hiện vào thân xác vật lý này để nhận lễ vật dâng cúng của cô chủ.

Cô đã nhanh chóng trở về nhà và báo tin tốt lành này cho cô chủ. Sujata ngạc nhiên vui mừng. Cô đến ngay cái cây với món cháo sữa đựng trong một cái bình vàng để dâng lên thần cây. Tuy nhiên, cô nhanh chóng nhận ra đó không phải là thần cây mà là một ẩn sĩ. Cô dâng Ngài món cháo sữa và vô cùng cảm kích khi Ngài nhận lấy.

Khi nhìn thấy vị hành giả trẻ, tình mẫu tử khởi lên trong bà. Thay vì thỉnh cầu bất kì điều gì, bà dâng Ngài món cháo sữa và phát nguyện mong ước cho Ngài thành lời ‘Nguyện việc hành thiền của Ngài được kết quả.’ Đây là bữa ăn cuối cùng của Siddhattha khi còn là Đức Bồ tát. Ngài đã đạt giác ngộ vào đêm kế tiếp và vì thế, sự dâng cúng thức ăn này được xem là góp một phần rất quan trọng.

5, Năm giấc mơ giúp tìm ra con đường chứng quả:

Trời đã gần rạng sáng trước đêm trăng tròn Vesaka. Đức Bồ Tát Siddhattha Gotama nằm xuống dưới gốc cây đa nghỉ ngơi một lúc sau khi thiền một mình cả đêm. Ngài ngủ gật. Trong khi buồn ngủ Ngài có năm giấc mơ tốt lành chứng minh tương lai đầy kết quả của Ngài.

a, Giấc mơ thứ nhất

Ngài thấy cơ thể ngài nằm trên đất và dần dần lớn lên cho tới khi bao phủ hết cả Nepal và Ấn Độ. Dãy núi Himalayas ở phía bắc trở thành gối của Ngài. Tay trái ngài đặt ở bờ biển của Vịnh Bengal và sóng biển đang rửa tay cho ngài. Phía nam chân ngài ở bờ biển Ấn Độ Dương và sóng biển đang rửa chân cho ngài.

Đây là đại diện cho biên giới lãnh thổ địa lý của Nepal và Ấn độ ám chỉ người đàn ông vĩ đại này sẽ trở thành Phật và lời dạy của Ngài sẽ được chấp nhận bởi toàn thể dân chúng của Jambudipa. Lời dạy của Ngài sẽ được lan rộng ở phía Bắc đến các quốc gia ngoài vùng Himalayas và ở phía Đông, Tây và phía Nam qua đường biển đến tất cả nhân loại.

b, Giấc mơ thứ hai

Có một giống cây nảy mầm từ rốn Ngài và tiếp tục cao lớn hơn vươn lên tận bầu trời. Đây là điềm báo rằng Ngài không chỉ dạy cho loài người mà còn dạy cho các chư thần và phạm thiên. Ngài sẽ là vị thầy của loài người và chư thiên. Ngài sẽ là vị thầy của toàn thể chúng sinh và lời dạy của ngày sẽ lợi lạc mang lại lợi ích và hạnh phúc cho toàn thể chúng sinh.

c, Giấc mơ thứ ba

Không đếm kể những người tóc đen mặt y màu trắng và tôn kính Ngài, ám chỉ rằng có vô số cư sĩ tại gia sẽ trở thành đệ tử của ngài. Những người bị vướng vào những nghi lễ, nghi thức và niềm tin mù quáng, sẽ học Dhamma từ Ngài và đạt được lợi lạc vô tận.

d, Giấc mơ thứ tư

Những loài chim màu xanh, vàng, đỏ và xám từ bốn hướng ngồi trong lòng Ngài và trở thành màu trắng. Điều này ám chỉ những người từ bốn tầng lớp Bà la môn, chiến binh, thương nhân và tầng lớp thủ đà la hạ cấp sẽ trở thành đệ tử của ngài, trở thành tăng chúng và ni và sẽ thoát khỏi vòng sinh tử. Mọi người đến từ mọi tầng lớp và tín ngưỡng sẽ trở thành đệ tử của Ngài, sẽ trở thành thánh thiện. Họ sẽ trở thành Dhammika. Họ sẽ giải thoát khỏi ràng buộc của phân biệt tông phái và đẳng cấp. Họ sẽ coi trọng việc thực hành thay vì bè phái tín ngưỡng và đẳng cấp.

e, Giấc mơ thứ năm

Ngài thấy mình đang bước đi trên mặt đất bám đầy chất bẩn nhưng chúng không chạm được tới Ngài. Điều này ám chỉ rằng mặc dù Ngài đang ở thế giới trần tục đầy bất tịnh, Ngài vẫn thanh tịnh.

Thế giới này sẽ luôn tràn đầy bất tịnh. Không thể thoát khỏi sự ô nhiễm của toàn thể thế giới nhưng Đức Phật sẽ giữ Ngài tách rời khỏi sự bất tịnh của thế gian và sẽ luôn giữ sự thanh tịnh.

6, Chứng đắc Phật Quả:

a, Sự kiên định tuyệt vời:

Vào đêm trăng tròn của ngày lễ Vesakha, Thái Tử Siddhattha, một vị khất sĩ lang thang, ngồi xếp bằng dưới gốc cây Bồ đề ở cạnh bờ sông Neranjara trong khu rừng Uruvela – với lòng kiên định mạnh mẽ – không thay đổi tư thế dù bất kỳ điều gì cho đến khi Ngài đạt Sự thật và Chứng Ngộ, Phật Quả – thậm chí nếu nỗ lực này có thể làm Ngài mất mạng.

Một sự kiện tuyệt diệu đang đến. Thái tử khất sĩ tập trung tất cả sức mạnh của tâm để đảm bảo rằng tâm chú tâm vào một điểm điều cần thiết để khám phá Chân lý. Tâm cân bằng, thái tử khám phá ra rằng chính dịp này, không hề dễ dàng. Xung quanh Ngài không chỉ có sự kết hợp giữa những lực tinh thần của các tầng trời thấp với các tầng trời cao, mà còn có sự can thiệp mạnh mẽ đủ để làm tâm chùng xuống, tắt hoặc mở, sự quân bình của tâm. Sự kháng cự của những lực phổ quát không bị chia cắt chống lại bức xạ ánh sáng thông thường bảo vệ Ngài khỏi sự bất thường, có lẽ vì đây là nỗ lực cuối cùng đến Phật Quả, và Mara, thế lực của cái ác, đang đứng đằng sau.

Tuy nhiên, vị thái tử đã thực hiện theo cách của Ngài chậm rãi nhưng chắc chắn, các nguồn lực tinh thần của đạo hạnh tất yếu trở lại với Ngài vào đúng thời điểm. Ngài đã lập một nguyện cầu và kêu gọi các phạm thiên và chư thiên, những người đã chứng kiến việc Ngài đã hoàn thành mười sự hoàn hảo vĩ đại cùng chung tay với Ngài trong cuộc tranh đấu này để đạt quyền năng tối thượng. Việc này hoàn thành, sự liên kết các năng lực tinh thần tinh khiết siêu việt của các phạm thiên và chư thiên đã có một tác dụng mạnh mẽ. Những lực lớn dày đặc, dường như khó bị phá vỡ, đã tan rã, và dần cải thiện sự làm chủ tâm, chúng đã bị quét đi một lần và tất cả.

b, Đạt thành Chứng Quả:

Tất cả các trở ngại được vượt qua, Thái Tử có thể nâng cao sự tập trung và đặt tâm trí vào trạng thái tinh khiết, yên tĩnh và quân bình. Dần dần, ý thức về sự thật bên trong chiếm hữu Ngài. Giải pháp của những vấn đề quan trọng mà Ngài phải đối mặt hiện ra trong ý thức như một nguồn cảm hứng. Bằng việc thiền hướng vào bên trong trên bản chất sự thật của chính Ngài, đối với Ngài nó trở nên rõ ràng rằng không có thực chất giống như ta nhìn thấy mà đó là tổng cộng của toàn thể vô số triệu kalapas, mỗi hạt có kích thước 1/46,656 của một phân tử hạt bụi sinh từ bánh xe của cỗ xe ngựa trong mùa hè. Xa hơn, Ngài nhận ra rằng chính kalapa cũng là một vật chất trong sự thay đổi không ngừng hoặc tuôn ra. Do đó cũng với tâm trí, đây là biểu hiện của những lực tinh thần (sáng tạo) đi ra và những lực tinh thần (được tạo ra) đi vào hệ thống của một cá nhân một cách liên tục và suốt thời gian bất tận.

Sau đó Đức Phật tuyên bố rằng Tuệ Nhãn khởi sinh khi Ngài vượt qua nhận biết sai lầm thật chất trong chính bản thân Ngài. Ngài thấy qua sự tập trung các kalapas mà sau đó dựa vào nó Ngài áp dụng ngay luật vô thường và giảm bớt chúng cho đến khi về không hoặc hành vi, làm mất đi cái trong đạo Phật chúng ta gọi là pannatti (nhận định) và tiến đến một trạng thái của paramattha, hiểu được bản chất của các lực hoặc, nói theo cách khác, đây là Sự Thật Tối thượng.

Theo đó, Ngài tiến đến một sự nhận thức về sự thay đổi vĩnh viễn của tâm và vật chất trong Ngài và như một kết quả dẫn theo đến Sự Thật về Khổ. Sau đó bản ngã trung tâm của Ngài bị phá vỡ vào không khí, và ngài vượt lên đến một trạng thái vượt khổ không còn dấu tích của atta, hay bám víu vào cái tôi, nó bị bỏ lại. Tâm trí và vật chất với Ngài trở thành hiện tượng trống rỗng cứ kéo dài mãi mãi, trong phạm vi của Luật Nhân Quả và Luật Khởi Nguyên. Sự thật được nhận thức rõ ràng. Những phẩm chất vốn có của một vị Đại Bồ Tát sau đó được phát triển, và hoàn toàn Chứng Ngộ với Ngài khi bình minh của Ngày Lễ Vesakha. Chắc chắn, Thái tử Siddhatha chứng đắc Giác ngộ tối thượng và trở thành Đức Phật, Người Tỉnh Thức, Người Giác Ngộ, và Người đầy hiểu biết. Ngài choàng tỉnh theo cách so sánh với tất cả thế nhân đang ngủ hay đang mơ. Ngài đã tỉnh thức theo cách so sánh với tất thảy thế nhân đang ngụp lặn trong màn đêm tối. Ngài biết một tri thức so sánh với tất cả hiểu biết của thế nhận biết nhưng vô minh.

Với kinh nghiệm của giải thoát hoàn toàn sau đây là những lời vui mừng xuất hiện:

– Qua không biết bao nhiêu lần sinh không đếm kể tôi lang thang trong luân hồi, tìm kiếm, nhưng mãi không tìm thấy, người thợ xây nhà. Tôi đã sinh ra trong bao đau khổ liên miên. Ồ người thợ xây nhà anh đã bị phát hiện! Anh không thể xây lại căn nhà nào nữa. Tất cả xà nhà và cột trung tâm đã bị phát hủy. Tâm đang thoát khỏi tất cả sankhara. Trạng thái vô tham ái đã đạt tới.

Đây cũng đồng thời mở ra một trang sử mới của Phật Giáo. Bắt đầu từ chứng đắc Phật Quả, Đức Phật Gotama đã thu nhận và lập ra Tăng Đoàn bao gồm nhiều đệ tử. Từ đó truyền bá Phật giáo đi khắp mọi miền.

7, Đại Niết Bàn Của Đức Phật Gotama:

 

Ở tuổi tám mươi Đức Phật viếng thăm Vesali nơi cô gái làng chơi Ambapali dâng cho ngài bữa ăn và dâng món quà là Khu rừng Ambalatthika cho Tăng đoàn. Trong suốt thực hành Dhamma cô thoát khỏi sự vô đạo đức, thiết lập mình vào sự thật, và trở thành arahant. Sau đó cùng năm đó ngài viếng thăm Pava và ở lại khu rừng xoài của Cunda.

Nơi đây Ngài nhận bữa ăn được xem là cuối cùng và sau đó trở nên yếu đi. Trong tình trạng dần yếu đi ngài tiếp tục đến Kusinara. Tại đó Ngài hướng dẫn Ananda vắt chiếc áo choàng giữa hai cây sala, và nói rằng sự sống của Ngài đang đi dần đến hồi kết. Số đông các tu sĩ, cư sĩ tại gia, và chư thiên xếp hàng quanh Ngài và cầu nguyện cho Ngài lần cuối. Đức Phật ban cho họ lời động viên cuối cùng, được biết đến như là pacchima-vaca:

– Sự phân rã có sẵn trong mọi vật kết hợp, hãy rèn luyện sự giải thoát cho chính mình với sự siêng năng.

Đức Phật nhập Đại Niết Bàn vào năm 80 tuổi, vào đêm trăng tròn Vesakha năm 544 trước Công Nguyên.

 

 Social Phong Linh Gems

Mioola - About - Gitlab - Issuu - Myfolio - Gravatar - Speakerdeck - Brandyourself - Wikidot - Kaywa

Thriveglobal - Fliphtml5 - Sketchfab - Spreaker - Stocktwits - Able2know - Seedandspark -

Myminifactory - Hulkshare - LongislandIntensedebate - Myanimelist - Letterboxd - Zeef

 

 

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Đức Phật A Di Đà Màu Gì?

Lịch Sử Đức Phật A Di Đà

Đại Thế Chí Bồ Tát – Đại Diện Của Ánh Sáng Trí Tuệ